Download miễn phí Luận văn Kỹ thuật về công nghệ thi công TOP-DOWN





Với các kết cấu nhà cao tầng có tầng hầm thì hệ kết cấu của nhà nói chung và của tầng hầm nói riêng thường là bằng kết cấu bê tông cốt thép có thể là lắp ghép và đổ toàn khối tại chỗ. Tuy nhiên với những nhà rất cao tầng thì lúc này kết cấu thép sẽ hợp lý hơn, nhưng nhìn chung thì kết cấu tầng hầm vẫn là hệ kết cấu bằng bê tông cốt thép. Do tính năng sử dụng của tầng hầm như đã nói là nó dùng để làm kho chứa hàng, làm tầng phục vụ sinh hoạt công cộng, làm tầng kỹ thuật, làm gara ô tô, làm kho lưu trữ tài liệu mật. Vì thế kết cấu bằng bê tông cốt thép là hợp lý hơn cả. Hệ lưới cột dầm cũng giống như cho bất kỳ một nhà cao tầng nào chỉ có điều là nhịp của nó thay đổi theo yêu cầu sử dụng.
 
để thi công tầng hầm theo phương pháp "Top-down" ta cần có một hệ cột đỡ tạm cho các sàn tầng hầm. Số lượng cột tạm phải được tính toán và bố trí hợp lý để sao cho số cột là ít nhất nhưng khả năng làm việc cao nhất. để tính được số cột tạm cần thiết ta đưa vào tiến độ thi công phần thân nhà. Thông thường thì sau 30 ngày kể từ khi bắt đầu thi công thân nhà (Từ cốt 0,00 trở lên). Nếu theo phương pháp thi công từ dưới lên thì phải 5,6 tháng sau ta mới thi công phần thân được. Số lượng sàn tầng của phần thân ta chọn tối thiểu là 2 sàn trở lên. Ta chọn sao cho khi thi công tiến độ của phần thân và phần ngầm càng nhịp nhàng càng tốt. Từ số lượng sàn ta chọn để tính toán cột tạm thứ nhất ta chọn lưới cột tạm, từ lưới cột tạm ta xác định được tải trọng mà cột phải chịu (cho tới khi thi công xong các cột tầng hầm cuối cùng và cột đã đủ cường độ chịu lực theo tính toán). Sau đó tính toán vật liệu để làm cột chống tạm. Còn cách thứ hai là từ một loại vật liệu cho cột chống tạm cụ thể là ta đi tính được số lượng cột chống tạm cần thiết. Vật liệu để làm việc cho cột chống tạm ở đây người ta sử dụng loại cột thép hình (H) có gia cường thép góc. Một phương án nữa cũng được đưa ra là cột ống nhồi bê tông. Cả hai phương án cột tạm này đều được thi công cùng lúc với cọc khoan nhồi chúng đều được giữ lại để làm cột cố định (vĩnh viễn) cho công trình.
 
điều ta quan tâm ở đây là làm thế nào để các cột tạm này sau khi đã được thi công thành cột vĩnh viễn có đầy đủ tính chất của một cột vĩnh viễn. Vấn đề chủ yếu là mối nối giữa cột và dầm sàn, mối nối giữa phần cột tầng trên đã thi công và phần cột dưới sẽ thi công, làm sao để chúng đạt yêu cầu về cốt thép, về bê tông đúng như thiết kế.
 
Một phương án nữa cũng được đưa ra để thi công tức là trong quas trình thi công cọc nhồi người ta tiến hành thi công cột vĩnh viễn ngay. Trong cốt thép của cột người ta để lại các chi tiết để liên kết với dầm. Với phương pháp này người ta có thể thi công bê tông cột trong đoạn ống bao bằng bằng thép, khi đổ bê tông thì rút đầu nó lên. Việc dùng ống sẽ đảm bảo cho cột có tiết diện tròn đều, lớp bê tông bảo vệ sẽ đảm bảo thiết kế và chất lượng cột chắc chắn sẽ tốt hơn so với phần bê tông của cọc.
 
Tóm lại, để thi công được sàn các tầng hầm người ta cần có các cột tạm, các giải pháp cột tạm đưa ra nhu trên đây đều khả thi, song vấn đề cần nghiên cứu thêm là chọn như thế nào cho phù hợp với biện pháp thi công và để cho cột tạm đạt chất lượng như mong muốn. Từ trước tới nay các cột tạm đều được tựa lên một cọc khoan nhồi, đường kính của cột không lớn hơn đường kính của cọc. Trên mỗi cọc là một đài cọc và các cột tạm nằm trên đài và nó cũng sẽ là cột vĩnh viễn sau khi đã thi công xong công trình. Nó phải thoả mãn với các điều kiện liên kết với các kết cấu khác và đảm bảo điều kiện kiến trúc chung của ngôi nhà đồng thời không ngăn cản, gây khó khăn chó quá trình khoan, đặt cốt thép, bơm bê tông.
 
 
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


Dung trọng : 1,01 ¸ 1,05g/m3
§ộ nhớt : ³ 35 sec
§ộ pH : 9,5 ¸ 12
Kiểm tra đáy hố đào (hào) : Sau khi thổi rửa đáy hố đào bằng dung dịch Bentonite, cần kiểm tra độ sạch của đáy hố đào bằng một số biện pháp đơn giản sau :
§o chiều sâu : §áy hố đào được coi là sạch nếu chiều sâu sau khi thổi rửa bằng chiều sâu đào.
Sử dụng một số thiết bị xuyên đơn giản đánh giá sức kháng xuyên của đất dưới đáy hố.
Kiểm tra bê tông trước khi đổ : Bê tông sử dụng trong thi công tường trong đất tương ứng với các thông số sau :
§ộ sụt : >15cm
Cường độ sau 28 ngày : ³ 200kG/cm2.
Cốt liệu thô trong bê tông : Không lớn hơn cỡ hạt theo yêu cầu của công nghệ.
Ghi chép trong quá trình thi công :
Trong quá trình thi công cần ghi chép thời gian bắt đầu, thời gian kết thúc và các sự cố sảy ra trong quá trình thực hiện công việc sau :
Thi công tường định vị
§ào hào
Bơm dung dịch Bentonite
Thổi rửa đáy hào
§ặt khung thép
§ặt ống đổ bê tông
§ặt tấm chắn đầu
§ổ bê tông hạ các cấu kiện lắp ghép vào hào
Thể tích bê tông cho từng đoạn tường.
Sau khi thi công cần kiểm tra chất lượng của tường trong đất phát hiện các khuyết tật và xử lý ngay những chỗ bị hỏng. Có thể sử dụng các phương pháp sau đây :
Phương pháp kiểm tra dùng khoan lấy mẫu.
Phương pháp kiểm tra bằng thiết bị vô tuyến.
Phương pháp kiểm tra bằng siêu âm
Phương pháp kiểm tra bằng phóng xạ.
Và một số phương pháp động khác...
Chúng ta ai cũng biết công tác đo đạc kiểm tra cũng có ý nghĩa hết sức quan trọng. Người ta phải gắn mốc trắc địa và tiến hành quan trăc một cách hệ thống các biến dạng đứng, biến dạng ngang của kết cấu các công trình nhà cửa đã tồn tại. Công tác đo đạc trắc địa phải tiến hành suốt trong thời gian đào hào (§ặc biệt là quan trắc độ lún của tường định vị), lắp ghép kết cấu, đào đất trong hố móng và tỏng thời kỳ khai thác công trình.
4.4. An toàn lao động trong thi công "Tường trong đất" :
Trong quá trình thi công "Tường trong đất" phải đảm bảo an toàn cho người và thiết bị, máy móc thi công muốn vậy ta phải tôn trọng các yêu cầu trong "Quy tắc an toàn trong xây dựng" cũng như các nội qui, qui tắc an toàn trong khai thác máy móc thiết bị, an toàn trong phòng cháy chữa cháy...
Tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, các công trình có "Tường trong đất" phần lớn đều nằm trong trung tâm thành phố vì vậy công tác an toàn phải được đặt lên hàng đầu, không những để tránh tai nạn sảy ra cho người làm xây dựng mà còn cho cả cư dân sống xung quanh công trường, có biển báo, biển chỉ dẫn. Hào phải được đậy bằng ván (tấm lát). Phải có biện pháp thoát nước mặt đặc biệt là ở những nơi bố trí tường định vị. Phải có hàng rào ngăn cách hào cách 3m. Về mỗi bên phải có cầu dành riêng cho người qua hào. Các máy móc di chuyển gần hào phải được qui định rõ tránh sụt thành hào do rung động của máy móc. Các thùng chứa hoá chất, phụ gia phải có nắp đựng. Khi xây dựng neo bê tông phải tuân thủ qui tắc an toàn cho công tác khoan.
Một điều rất quan trọng là trong các giải pháp thi công cũng như trên tổng mặt bằng phải chỉ rõ các phương pháp đào đất, đổ đất và vận chuyển đất đi, giúp cho người thợ đào (lái máy đào) khỏi bỡ ngỡ, khỏi vi pham nội qui công trường. Mỗi một công việc đều được ghi chép có biên bản nghiệm thu mỗi khi thay đổi biện pháp thi công đều phải được sự thoả thuận giữa bên A và bên B bằng văn bản.
Tóm lại công tác an toàn lao động là hàng đầu cho mỗi công tác, hiệu quả kinh tế của một công trình xây dựng không thể tách khỏi công tác an toàn ra một bên được, nó là một chỉ tiêu để đánh giá sự thành công của một công trình.
5. Một số phương pháp làm khô hố móng :
§ể công tác thi công móng hay các tầng hầm được thuận lợi trong điều kiện mực nước ngầm cao, cần có biện pháp hạn chế thẩm thấu nước vào khu vực thi công hố đào. ở Việt Nam, đặc biệt là khu vực đồng bằng khi thi công các công trình ta thường gặp nước ngầm. Nước ngầm chảy vào hố gây lở, sụt vách hố đào, đồng thời cũng đẩy nổi đáy hố đào do đó việc thi công đáy hố đào bằng bê tông rất khó thực hiện. tuỳ từng trường hợp vào lưu lượng nước, độ cao lớp nước, vào thành phần hạt và tính chống thấm của đất nền mà định ra biện pháp chống thấm (hạ mực nước ngầm) cho phù hợp. Các biện pháp thường được sử dụng là bơm hút đáy bằng bơm phun dung dịch chống thấm vào đất và phương pháp điện hoá.
Sử dụng rãnh và hố thu nước (Hình 20)
Giải pháp này được dựa trên cơ sở các rãnh thu nước ở đáy hố đào tập trung nước về hố thu để bơm ra khỏi hố móng, nó thường được áp dụng cho đất cuội sỏi hay đá, lưu lượng nước ít, dòng chảy không mạnh, không cuốn trôi đất vào hố đào. §ôi khi người ta còn tạo lớp lọc nứoc ở sau vách chống đất để giữ cát không chảy gây sụt lở hố. §ây là phương pháp rẻ tiền.
Chiều sâu hố thu nước thường lấy bằng 1,0¸1,5m và cần chuẩn bị nhiều hố thu khi kích thước hố đào lớn.
Lưu lượng nước phải bơm khỏi hố đào được tính theo công thức của §ác xy :
Q=k.i.A
Trong đó : Q : Lưu lượng nước (m3/phút)
k : Hệ số thấm của đất (m/s)
i =h/l : Gradien thuỷ lực
A : Tiết diện ngang của dòng thấm
Lưu lượng Q cần được dự tính trước khi thi công để chuẩn bị thiết bị và các thiết bị và phương pháp bơm nước.
Hạ mực nước ngầm bằng giếng lọc :
Xung quanh hố đào ta khoan một loạt các giếng lọc và đặt máy bơm hút nước liên tục, mực nước ngầm ở dưới đáy hố đào được hạ thấp cục bộ, nằm ở cao độ thấp hơn đáy móng khoảng 0,5¸1,0m, cho phép thi công hố móng hay tầng hầm trên mặt bằng khô ráo. Phương pháp này có hiệu quả tốt khi đất nền là đất cát hạt nhỏ đến hạt thô, với vận tốc dòng chảy 1 ¸ 100m3/ngày. Khi vận tốc dòng chảy < 1 m3/ngày, khối lượng nước quá nhỏ nên phương pháp này trở nên không kinh tế. Nhược điểm của phương pháp này sẽ có khả năng gây cho vùgn xung quanh lún theo, do đó phải tính toán chính xác số lượng giếng và lưu lượng bơm, thời gian bơm để sao cho ảnh hưởng đến khu vực xung quanh là ít nhất, Giếng lọc không thu hồi được nên chỉ áp dụng tại những nơi mặt bằng thi công rộng, lưu lượng lớn, điều kiện triển khahi các giếng rời rạc, thời gian sử dụng lâu nhưng không liên tục. Mỗi đợt bơm nên ngắn để đất không kịp lún.
Lưu lượng nước chảy vào hố đào được tính gần đúng theo công thức :
(1)
Trong đó : q - lưu lượng lọc của 1 m2 hố đào.(m3/m) phụ thuộc vào đất đá (cát hạt nhỏ lấy q=0,16; hạt trung q=0,24; hạt thô q=0,35)
F - Diện tích hố đào (m2)
hm - Lượng nước mưa trong ngày;
K1 - Hệ số dự phòng = 1,1¸1,3
Khi hố đào có tường cừ vây xung quanh, lưu lượng nước chảy vào hố xác định theo công thức : .
Trong đó q0 = 0,2¸1,3 : phụ thuộc vào độ dày lớp nước ngầm (độ cao cột nước áp lực H).
h - độ sâu chôn cừ.
Ự : Chu vi hố đào.
Hạ mực nước ngầm bằng ống kim lọc :
Nguyên lý hoạn động của ống kim lọc giống như giếng lọc song việc triển khai và thu hồi nhanh do kim lọc ...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top